Go to ...

TINH THẦN YÊN BÁY BẤT DIỆT

RSS Feed

Tuesday, November 5, 2024

Hai ngày gác linh cữu Hoàng Văn Nhạn


Quả là ngẫu nhiên, khi từ tháng 12/1972 đến 30/4/1975, cả 3 đồng đội ngã xuống đều có mối liên hệ gần gũi với tôi. Trong Stt trước, cố thiếu úy Phan Huỳnh Vân có số quân liền kề với tôi, trong Stt này, cố chuẩn úy Hoàng Văn Nhạn, là SVSQ nằm giường dưới, còn tôi nằm giường trên (giường 2 tầng), thuộc trung đội 341, đại đội 34, khóa 3/72 trường Bộ binh Thủ Đức. Ở Stt sau, tôi sẽ viết về cố chuẩn úy Phan Văn Mang rớt máy bay T.37 ở bên trái phi đạo 33R, Sherppard Air Force Base, ngay trước mắt, lúc tôi chuẩn bị cất cánh.

Như đã kể trong Stt trước, đầu tháng 12/1972, SVSQ thuộc ba khóa: 3, 4, 5/72 Thủ Đức được đưa về các tỉnh miền Tây trong chiến dịch giành dân, giữ đất trước khi Hiệp định Paris có hiệu lực, trừ 60 SVSQ khóa 3 và 9/72, trong đó có tôi, được ở lại để chờ ngày chuyển sang Không quân học bay. Theo phóng đồ, mỗi SVSQ sẽ về một ấp, ăn ngủ tại uỷ ban hành chánh xã, ban ngày SVSQ cùng trưởng ấp và lính địa phương đi vào từng xóm, để giải thích Hiệp định Paris sẽ ngừng bắn vào ngày 27/1/1973. Lúc đó, chỗ nào của quân đội VNCH kiểm soát là lãnh thổ quốc gia, cấm quân Mặt trận Giải phóng xâm nhập, đồng bào phải treo Quốc kỳ VNCH, nếu phía bên kia lén treo cờ MTGP thì phải báo chính quyền để hạ cờ. Đồng bào không được đi vào vùng của MTGP kiểm soát. Theo trung úy Tâm, đại đội trưởng ĐĐ 34, quản lý tụi tôi, thì mục tiêu của tổng thống Thiệu trong chiến dịch này, đưa SVSQ về kèm sát trưởng ấp và xã trưởng để ngăn ngừa các viên chức vùng xôi đậu có thể làm ngơ để MTGP tái chiếm lãnh thổ mà quân VNCH vừa tiếp thu.

Ai dè, đúng một tuần sau, tin báo thằng Nhạn tử trận. Nhạn cùng trưởng ấp và 2 lính nghĩa quân đi trên ghe máy, qua đám dừa nước rậm thì bị trái lựu đạn ném lên nổ, kèm theo hàng loạt đạn AK bắn xối xã. Bốn người trên ghe đều tử trận. Nhạn con nhà giàu, đẹp trai, mặt vuông, cằm bạnh, đeo kiếng cận, giọng nói rổn rảng, yêu đời. Nó thường ca chế lời bài Love Story: “Bởi bà già rắc rối, cuộc tình rối rắm, ôi biết nói gì, thì đành nói dối…”. Tướng nó nhìn rất thọ, không thể chết yểu, trừ một điều tôi phát hiện là một tuần trước khi đi chiến dịch, da mặt nó từ màu xạm đầy vết lõm mụn bọc, bỗng dưng chuyển sang màu trắng xanh như người đau gan. Hỏi thăm, nó nói tao có đau yếu gì đâu!

Nhạn chết ngoài đồng, ông nội Nhạn không cho quàng Nhạn trong nhà, nên xin quàng Nhạn tại Nghĩa trang Quân đội. Trong đại đội 34 có 14 thằng chờ qua Không quân được xe GMC chở lên nghĩa trang gác linh cữu Nhạn. Bọn tôi mặc đồ tiểu lễ, đeo dây biểu chương, mang bao tay trằng, mỗi ca gác một tiếng, hai đứa bồng súng chào, đứng nghiêm như trời trồng ở hai bên hòm. Thay phiên gác từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều thì xe GMC đưa bọn tôi về Thủ Đức, hôm sau xe chở lên gác tiếp.

Bấy giờ, chiến trường Bình Long, Kontum, Cổ thành Quảng Trị đã kết thúc, nhưng quân VNCH còn đánh tái chiếm vùng nam Sông Thạch Hản và vùng Cửa Việt với tổn thất nhân mạng lớn, nên Nghĩa trang Quân đội có rất nhiều tử sĩ. Từ bên ngoài nhìn vào, phía tay phải nhà quàng có khoảng 70 quan tài xếp thành 2 dãy của hạ sĩ quan, binh lính theo đạo Phật. Bên trái nhà quàng có khoảng 50 quan tài của hạ sĩ quan, binh lính theo đạo Công giáo. Ở sảnh giữa chỉ có ba quan tài sĩ quan.

Dây chuyền an táng:

Mặc dù bên trong các quan tài đều được bọc thiết và hàn chì, nhưng mùi hôi vẫn xông ra nồng nặc, do xác lính chở về đến đây đều sình thối. Nhìn số quân mới biết đa số các anh sinh từ năm 1954 đến 1952 (18-20 tuổi) và thuộc các bình chủng thiện chiến: Nhảy dù, TQLC, Biệt động quân. Do quân đội tôn trọng tâm linh, nên nghi lễ an táng rất trang trọng nhưng không che giấu được những chi tiết thê lương! Bên dãy quan tài theo đạo Phật, vị tuyên úy Phật giáo, mặc cà sa vàng, đầu cạo trọc, mẫn cán lần lượt đọc kinh cúng cơm trưa và cúng cơm chiều từ quan tài này đến quan tài khác.

Vì mùi rất hôi, nên tang gia đều không đến gần quan tài, mà ở tại khu nhà nghỉ cách đó 100 mét. Khi đến lượt cúng cơm, nhà sư tụng kinh với hai người lính Liên đội Chung sự đứng hầu hai bên bàn thờ, tang gia mới đến quỳ trước bàn vong. Khi thầy tụng đến đoạn: “Kiềng tiền tửu châm, nhị tuần lễ nhị bái…” thì người lính hầu bưng nhạo rượu châm thêm ba ly rượu và vợ con tử sĩ lạy 2 lạy. Phần lớn tử sĩ có vợ trẻ, cha mẹ trên tứ tuần và anh chị em ruột đến, một số vợ tử sĩ bồng con nhỏ trên tay với vành khăn tang. Khi thầy đọc dứt kinh cúng cơm, hai người lính hầu bê cái bàn thờ sang quan tài kế bên, tang gia của quan tài kế bên liền đến quỳ. Tang gia của quan tài vừa tụng xong khóc tức tưởi trên hành lang trở về nhà nghỉ.

Một vòng cúng 70 quan tài phải mất 3 tiếng đồng hồ, vị sư tuyên úy và hai lính hầu phải chịu mùi hôi suốt 6 tiếng/ngày. Trong khi đó, bên 50 quan tài theo đạo Công giáo có nghi thức gọn hơn: Vị linh mục tuyên úy mặc áo dài thụng màu đen, một tay cầm chén nước thánh, một tay cầm nhánh hoa, rãi nước lên đầu quan tài, miệng đọc kinh, cũng có hai lính hầu nghiêm chào. Một tour làm phép rửa tội cho 50 quan tài chỉ mất một giờ. Tất cả quan tài đều phủ Quốc kỳ to kèm vành khăn tang nhỏ, Quốc kỳ dành để vinh danh Tổ quốc, khăn tang để tạ tội vì chết trước cha mẹ các anh, tôi không cầm được nước mắt khi nghĩ đến ý nghĩa đó.

Bình quân mỗi ngày, đội mai táng phải chôn phân nửa số quan tài đang quàng và đội tẫn liệm phải điền vào chỗ trống 60 quan tài mới. Liên đội Chung sự lo hữu sự từ lúc nhận xác đến lúc xây phần mộ. Cấp số của Liên đội khoảng bằng đại đội, nhưng không gọi là đại đội vì gồm đủ sắc lính: Một toán quân nhu đóng hòm, một toán quân y rửa xác, cho vào bọc nylon và đưa vào ngăn lạnh. Ngoài ra, mỗi binh chủng: Hải quân, Không quân, TQLC, Nhảy dù, Biệt động quân, Thiết giáp, Quân đoàn…phải cử hai hạ sĩ quan biệt phái về đây vừa để làm đội dàn chào danh dự, vừa nhận xác tử sĩ cùng binh chủng để báo cáo về đơn vị và trích quân bạ của tử sĩ đó để viết điếu văn. Tất cả quân nhân biệt phái đều dưới quyền chỉ huy của trung úy Liên đội trưởng, nếu nhớ không lầm tên là Xuân.

PONCHO BUỒN PHỦ KÍN ĐỜI ANH.
Trung úy Xuân xuất thân từ trường Sĩ quan Thủ Đức nên rất mến đàn em tụi tôi. Tôi vốn hiếu kỳ, ngoài giờ gác thường theo trung úy Xuân để hiểu các khâu vận hành của Nghĩa trang. Đa số xác ở Vùng III được đưa đến bằng xe GMC bít bùng (vì gần), Các tử sĩ ở Vùng 1, II, IV (xa) được tẫn vào quan tài và chở bằng máy bay C.130 về Tân Sân Nhất, rồi xe GMC chở về nghĩa trang. Một số xác ở Vùng III được chở về bằng trực thăng UH. Nghe tiếng trực thăng đáp, trung úy Xuân rủ tôi ra bãi đáp nhận xác. Anh cơ phi trực thăng cho biết, một trận đánh ở Hậu Nghĩa đến ngày thứ ba mới lấy được 5 xác tử sĩ ra. Xác được bọc kín trong Poncho (dùng làm áo mưa, làm võng, nếu ghép 3 cái thì thành lều chung) và được buộc bằng dây dù vào băng ca. Do xác sình sinh biogas, nên Poncho phồng lên, những chỗ buộc dây dù thì khuyết xuống, trông giống như đòn bánh tét mới nấu chính.

Không biết, khi NS Phạm Duy phổ thơ bài “Kỷ vật cho em” hoặc khi thi sĩ Linh Phương làm bài thơ này, có nhìn thấy cảnh tượng này không, mà viết lời thơ, ca quá chính xác: “Anh trở về anh trở về hàng cây nghiêng ngả – Anh trở về, có khi là hòm gỗ cài hoa – Anh trở về trên chiếc băng ca – Trên trực thăng sơn màu tang trắng (trực thăng cứu thương sơn trắng có chữ thập đỏ) – Anh trở về chiều hoang trốn nắng – Poncho buồn liệm kín hồn anh…

10 người lính của trung úy Xuân khiêng 5 băng ca vào phòng tắm xác. Cơ phi trực thăng chạy vào kho lấy 5 băng ca đã rửa và sấy khô đem lên trực thăng, giống như người uống xá xị phải trả lại vỏ chai. Tại phòng rửa xác, các anh lính mang khẩu trang dùng dao cắt đứt dây dù, rồi tưới nước compound và dùng vòi nước cực manh phun vào Poncho bung ra, một vài con còng núp dưới lớp poncho bị nước bắn lên cao. Sau khi xác tử sĩ sạch máu, các anh lính dùng dao, kéo hớt quân phục bó chật ra, rồi phun “bọt tuyết” lần nữa cho xác sạch, mới cho vào túi nylon và đưa vào ngăn lạnh. Trung úy Xuân cho biết, từ năm 1966 (khi bắt đầu nhận xác trận Đồng Xoài) đến trước Tết Mậu Thân xác tử sĩ về ít, nên quân y còn lấy da từ chỗ kín đem vá đắp các vết thương hở lớn ở mặt, bàn tay để thân nhân bớt đau lòng. Còn bây giờ xác nhiều quá, vết thương ra sao cứ để vậy.

Các lính biệt phái có trách nhiệm lấy thẻ bài của tử sĩ cùng binh chủng và báo về đơn vị. Đơn vị trưởng báo về Bộ Tổng tham mưu để ký quyết định thăng cấp và tặng huy chương, rồi báo về tiểu khu nơi thân nhân tử sĩ cư ngụ. Tiểu khu có trách nhiệm lấy xe chở thân nhân tử sĩ đến Nghĩa trang quân đội. Liên đội Chung sự phát mùng mền chiếu gối lẫn đồ tang cho thân nhân tử sĩ, cấp thức ăn cho thân nhân (món ngon như đám giỗ). Sau khi ổn định chỗ ăn ở, thân nhân được đưa xuống phòng lạnh nhận xác tử sĩ để liệm theo ngày giờ mà thân nhân đã xem bói. Xác nào mất thẻ bài hoặc có thẻ bài nhưng lâu quá thân nhân chưa đến nhận cũng đem ra liệm và chôn theo nghi thức. Vì vậy, có những quan tài đề tên rất lạ như: “Phi hành đoàn C.47”. Trung úy Xuân cho biết, khi lính hành quân vào mật khu, phát hiện có 5 cái sọ nằm gần xác máy bay C.47, không thấy xương thân thể, không thấy thẻ bài, bèn nhặt về giao. Trung úy Xuân cho bỏ tạm 5 sọ vào một quan tài, và báo cho Không quân sưu tra, chiếc C.47 rơi tại tọa độ đó là phi vụ nào, hồi năm nào, để tìm ra phi hành đoàn. Có quan tài gắn hình một cô gái cười tươi rất đẹp, tưởng là nữ quân nhân, ai dè Trung úy Xuân giải thích, trong bóp tử sĩ có ảnh cô gái, nhưng không có ảnh anh ta, mà thân nhân chưa đến, nên anh em tẫn liệm lấy hình người yêu gắn ở đầu hòm mong vong linh tử sĩ tạm vui.

Vì sĩ quan chỉ huy các tử sĩ đều ở chiến trường, nên trung úy Xuân phải thay mặt họ đọc quyết định thăng thưởng huy chương – cấp bậc và đọc điếu văn. Một ngày chôn 60 tử sĩ, trung úy Xuân phải đọc 60 quyết định thăng cấp, 60 quyết định tặng huy chương và 60 điếu văn ngắn. Do các quyết định đều do Bộ tổng tham mưu ký, nên theo hệ thống quân giai, trung úy Xuân phải thừa lệnh nhiều cấp: “Thừa lệnh đại tướng Tổng tham mưu trưởng, thừa lệnh trung tướng tư lệnh quân đoàn, thừa lệnh chuẩn tướng tư lệnh sư đoàn, thừa lệnh đại tá tiểu khu trưởng tiểu khu Biên Hòa, tôi trung úy Xuân xin đọc quyết định, đọc điếu văn…“. Sau khi trung úy Xuân đọc điếu văn, một phút mặc niệm bắt đầu, hai lính quân nhạc thổi bài Exodus bằng kèn và 8 người lính bồng súng chào ở hai bên hòm. Lúc hạ huyệt cũng với tiếng kèn đưa tiễn, 8 người lính bắn 8 phát súng chỉ thiên. Có những người vợ trẻ đôi mươi và bà mẹ tứ tuần nhào xuống huyệt đòi chết theo chồng, con mình. Tôi đứng nghiêm đưa tay lên chào tử sĩ không quen biết lần cuối mà không cầm được nước mắt. Hai ngày gác ở Nghĩa trang, mới thấy được những thi thể không lành lặn của người lính và hiểu thấu được nỗi đau của những người vợ trẻ, mẹ trẻ.

Tác giả: fb Mai Bá Kiếm

More Stories From Chính Trị

About Luu HoanPho,

Lưu Hoàn Phố. Chủ biên Vietquoc.com. Mọi bài vở, ý kiến, xin email về luuhpho@yahoo.com

Web Design BangladeshWeb Design BangladeshMymensingh