2019 : Hải quân phương Tây dồn về Biển Đông, Việt Nam được lợi gì?
Posted by Luu HoanPho, Jan 8, 2019, Comments Off
Phương Tây sẽ chú trọng hơn đến việc bảo vệ tự do hàng hải ở Biển Đông, thách thức yêu sách phi lý của Trung Quốc ? Năm 2018, Hải Quân Mỹ thường xuyên tuần tra vì tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông và công khai yêu cầu Bắc Kinh phải rút hết hệ thống tên lửa khỏi các đảo nhân tạo mà Trung Quốc bồi đắp ở quần đảo Trường Sa.
Không chỉ Hoa Kỳ, rất nhiều nước có lợi ích trong khu vực cũng tham gia vào việc bảo vệ tự do hàng hải, thách thức đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc trên hầu hết Biển Đông. Lần đầu tiên kể từ sau Thế Chiến II, Nhật Bản điều tàu ngầm xuống Biển Đông vào giữa tháng 09/2018. Tokyo ký với các nước ASEAN chiến lược Vientiane Vision nhằm tăng cường quan hệ quân sự.
Pháp, Anh cũng điều tầu bảo vệ tự do hàng hải tại Biển Đông, ghé thăm Việt Nam. Nhiệm vụ đầu tiên trong năm 2019 của tầu sân bay Pháp Charles de Gaulle, sau hơn 18 tháng nâng cấp, sẽ là vùng Ấn Độ Dương. Ngoài việc tiếp tục bảo vệ quyền tự do hàng hải ở Biển Đông, Anh Quốc có thể mở căn cứ quân sự ở Đông Nam Á.
Vậy Trung Quốc phản ứng như thế nào trước những chiến dịch bảo vệ tự do hàng hải ở Biển Đông của các nước phương Tây ? Việt Nam được lợi gì từ những chiến dịch đó ? RFI tiếng Việt đặt câu hỏi với ông Mathieu Duchâtel, giám đốc Chương trình châu Á, Viện Montaigne (Institut Montaigne, Paris).
***
RFI : Mỹ tiếp tục tuần tra bảo vệ tự do hàng hải ở Biển Đông với chiều hướng gia tăng trong thời gian gần đây. Pháp và Anh cũng lần lượt thông báo sẽ điều tầu sân bay và chiến hạm đến vùng Ấn Độ Dương trong năm 2019. Phải chăng đây là chiến lược được ba nước Anh, Pháp, Mỹ cùng phối hợp để ngăn đà bành trướng của Trung Quốc ?
Mathieu Duchâtel : Trước tiên, cần biết là Hoa Kỳ, châu Âu và Pháp vẫn hiện diện thường xuyên ở Biển Đông để bảo vệ quyền tự do hàng hải. Nhưng ngoài ra cũng có nhiều nước khác đã điều tầu chiến đến khu vực này trong năm nay (2018), đó là trường hợp của Úc, Nhật Bản và Canada. Dĩ nhiên, chúng ta có thể nghĩ rằng có sự phối hợp nào đó giữa các quốc gia trên. Nhưng điều chắc chắn là các nước này có chung quan điểm về tự do hàng hải, luật pháp quốc tế và Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.
Cũng cần chú ý đến sự khác biệt giữa Hoa Kỳ và các nước phương Tây khác, kể cả Nhật Bản, về cách thực hiện kế hoạch hiện diện ở Biển Đông. Những gì mà phía Mỹ làm, đó là tiến hành tuần tra vì tự do hàng hải ở Biển Đông, trong khi những nước khác chỉ hiện diện trong vùng biển này.
Ngoài ra, còn có sự khác biệt cơ bản, đó là Mỹ thách thức Trung Quốc trong vùng 12 hải lý quanh một số thực thể do Trung Quốc kiểm soát, đặc biệt là các đảo nhân tạo ở Trường Sa được bồi đắp và xây dựng dưới thời ông Tập Cận Bình. Trong khi đó, các nước khác không đi vào khu vực 12 hải lý này, mà chỉ hoạt động trong vùng biển quốc tế, dù không có định nghĩa pháp lý nào về khu vực 12 hải lý, vì những đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc không phù hợp với luật biển.
Vì vậy, có chút khác biệt giữa cách tiếp cận của Mỹ, mang vẻ khiêu khích hơn, với cách tiếp cận của các nước khác là hiện diện để nhắn với Trung Quốc, cũng như các nước khác trong khu vực rằng họ có mặt ở đây để bảo vệ luật biển và tự do hàng hải.
RFI : Ông đánh giá thế nào về việcPháp cũng xuất hiện thường xuyên hơn ở Biển Đông và vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương trong vài năm gần đây ?
Mathieu Duchâtel : Trong ba năm gần đây, Pháp đã cử tầu đến khu vực Biển Đông. Năm 2018, Paris quyết định điều tầu sân bay Charles de Gaulle thi hành nhiệm vụ ở Ấn Độ Dương, cho đến Singapore, có thể sẽ không đi qua Biển Đông. Tuy nhiên, điều chắc chắn là đã có một chiến hạm Pháp, như mọi năm, đã đi qua vùng Biển Đông. Như vậy, từ nhiều năm nay, Pháp đã có ý chí khá rõ ràng và nhất quán trong việc bảo vệ cách tiếp cận của mình về luật biển.
Pháp cũng muốn « Âu hóa » sự hiện diện tại vùng biển này. Người ta có thể thấy điều này qua việc một số nhà quan sát châu Âu (Đan Mạch, Đức) có mặt trên tầu của Pháp và có thể sẽ có nhiều người khác trong tương lai.
Thêm một điểm cuối liên quan đến sự hiện diện của các nước châu Âu ở Biển Đông, với tôi, một thất vọng lớn ! Liệu Đức, một ngày nào đó, có hiện diện, hoặc đồng hành với các nước châu Âu, hoặc sát cánh với Mỹ để tăng cường thông điệp của phương Tây về Biển Đông hay không ?
Đức hiện đang suy nghĩ về vấn đề này, nhưng chưa có quyết định nào được đưa ra, dù đã có một cuộc thảo luận. Dĩ nhiên, nếu chính phủ Đức làm giống như Pháp và Anh, việc này sẽ củng cố thêm thông điệp của châu Âu không chỉ về quan điểm chủ quyền, mà cả thông điệp về quyền tự do hàng hải
RFI : Trung Quốc đối phó và phản ứng thế nào với sự hiện diện hải quân của nhiều cường quốc ở Biển Đông ?
Mathieu Duchâtel : Hiện nay, Trung Quốc đáp trả một cách rất đa dạng. Cách đáp trả hung hăng của Trung Quốc chỉ dành riêng cho Mỹ. Bắc Kinh lên án Mỹ qua đường ngoại giao. Hải Quân Trung Quốc từng nhắm vào một tầu chiến của Mỹ và suýt gây ra sự cố để gây sức ép với Hoa Kỳ. Bắc Kinh cũng tấn công Mỹ trên báo chí, ví dụ để báo chí nói là Hải Quân Trung Quốc đâm vào một tầu Mỹ để buộc con tầu đó rời khỏi khu vực.
Nước thứ hai bị nhắm đến, nhưng nhẹ hơn nhiều, đó là Anh Quốc. Luân Đôn cũng bị Bắc Kinh chỉ trích vì hiện diện ở Biển Đông, nhưng với những từ ngữ không gay gắt bằng những lời chỉ trích nhắm vào Mỹ.
Đối với những nước khác (Pháp, Úc, Nhật Bản và Canada), chính quyền Bắc Kinh ít nhiều chưa nhắc đến sự hiện diện của những nước này ở Biển Đông. Lý do là tránh để tất cả các nước này thành lập một mặt trận chung với Anh và Mỹ và cũng để tránh khả năng nhiều nước khác thay đổi lập trường và chuyển sang ủng hộ Hoa Kỳ.
Ngoài ra, còn phải chú ý đến một số yếu tố khác ngoài vấn đề Biển Đông, như cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung. Trung Quốc tìm cách để Nhật Bản, Pháp, Úc không đứng về phía Mỹ trên hồ sơ thương mại. Đây cũng chính là lý do mà Bắc Kinh tỏ ra rất chừng mực trong phát biểu về các quốc gia này liên quan đến Biển Đông.
RFI : Liệu Trung Quốc có tiếp tục xây dựng và bồi đắp, quân sự hóa các đảo nhân tạo trong vùng Biển Đông để đối phó ?
Mathieu Duchâtel : Dĩ nhiên là Trung Quốc lý giải rằng cơ sở hạ tầng quân sự của họ trên các đảo nhân tạo là để đối phó với sự hiện diện thường xuyên trong khu vực của Hải Quân Mỹ và để bảo vệ các cơ sở hàng hải của Trung Quốc trước những hoạt động theo dõi của Mỹ.
Điều chắc chắn là Trung Quốc sẽ tiếp tục củng cố bẩy đảo nhân tạo mà nước này chiếm đóng ở quần đảo Trường Sa bằng cách lập thêm thiết bị phòng thủ, khả năng theo dõi khu vực, khả năng chống tầu thủy và phòng không. Điều mà Bắc Kinh chưa rõ : Liệu Trung Quốc có thật sự lựa chọn leo thang căng thẳng trong khu vực không ? Liệu Trung Quốc có thể quân sự hóa một số thực thể khác trong quần đảo Trường Sa không ? Trung Quốc hiện vẫn giữ lá bài này và tiếp tục quân sự hóa bẩy hòn đảo nhân tạo mà họ đã bồi đắp.
RFI : Việt Nam được lợi gì và bị bất lợi gì từ những chiến lược bảo vệ tự do hàng hải của các nước trên ?
Mathieu Duchâtel : Tôi nghĩ rằng một sự hiện diện thường xuyên của hải quân phương Tây trong khu vực có chủ đích ngăn Trung Quốc đi xa hơn trong hoạt động kiểm soát Biển Đông. Điều này có lợi cho quốc phòng của Việt Nam, vì Trung Quốc buộc phải tập trung nhiều hơn vào sự hiện của hải quân các nước nằm ngoài khu vực. Và điều này giảm bớt không gian mà Trung Quốc có thể chiếm để mở rộng sự hiện diện và kiểm soát các thực thể mà họ chưa chiếm được.
Tôi nghĩ rằng kịch bản tồi tệ nhất đối với tất cả các nước trong khu vực, không chỉ mỗi Việt Nam, Malaysia hay Philippines, mà kể cả các nước ngoài khu vực, đó là Trung Quốc quyết định, như trường hợp từng xảy ra năm 2014, khi Bắc Kinh đột ngột xây dựng một loạt đảo nhân tạo và điều này đã hoàn toàn thay đổi nguyên trạng. Năm 1995, Bắc Kinh quyết định chiếm Đá Vành Khăn (Mischief Reef), lúc đó do Philippines kiểm soát, tương tự như Đá Gạc Ma (South Johnson Reef) mà Trung Quốc chiếm từ Việt Nam trong một trận hải chiến đẫm máu năm 1988. Đến năm 2014, Trung Quốc tiến xa hơn trong các yêu sách kiểm soát khu vực.
Hiện nay, sự hiện diện trong khu vực của hải đội nhiều nước làm giảm phần nào khả năng Trung Quốc đi xa hơn. Vì vậy, theo tôi, có sự hội tụ giữa lợi ích quốc phòng của Việt Nam, cũng như của các nước khác trong khối ASEAN có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc.
Dĩ nhiên, sự hiện diện thường xuyên của hải quân phương Tây ở Biển Đông không giúp được Việt Nam đòi lại chủ quyền, đặc biệt là đối với quần đảo Hoàng Sa. Điều này có nghĩa là Việt Nam không thể tận dụng cơ hội để lấy lại Hoàng Sa. Đúng là có sự quy tụ lợi ích, nhưng phần nào bị hạn chế.
Tôi cũng nghĩ rằng, đối với một nước như Việt Nam, đang bảo vệ lợi ích trước xung đột chủ quyền với Trung Quốc, sự hiện diện thường xuyên của hải quân phương Tây ở Biển Đông tạo ra cơ hội quan trọng hơn mà Việt Nam có thể tận dụng trong chiến lược hiện đại hóa quân đội của nước này. Chúng ta có thể thấy việc Hoa Kỳ dỡ bỏ cấm vận cho phép Hà Nội đa dạng hóa nguồn cung cấp vũ khí, có nhiều cuộc trao đổi ngoại giao và quân sự hơn, mở rộng tiềm năng hợp tác với nhiều nước khác…
Tôi cho rằng việc này sẽ thay đổi một chút viễn cảnh, không chỉ cho Việt Nam mà còn cho cả các nước ASEAN có tranh chấp với Trung Quốc, trong khi tình hình trở nên căng thẳng hơn do hoạt động bồi đắp các đảo nhân tạo của Bắc Kinh.
Nguồn: RFI/Thu Hằng