Chiến thuật “độc chiếm Biển Đông” được Trung Quốc áp dụng tại vùng tranh chấp với Ấn Độ ở Himalaya
Posted by Luu HoanPho, Mar 12, 2021, Comments Off
Lầm lũi chiếm từng hòn đảo để dần dần độc chiếm Biển Đông, Trung Quốc đang áp dụng chiến lược tương tự để gặm nhấm từng mét đất trên dãy Himalaya, tại những khu vực có tranh chấp lãnh thổ với Ấn Độ và vương quốc Bhutan. Bắc Kinh thực hiện kế hoạch này thông qua dự án xây dựng 624 ngôi làng biên giới, theo một tài liệu năm 2017 được trang South China Morning Post nêu ngày 24/01/2021.
Một ngôi làng mới với khoảng 101 ngôi nhà được Trung Quốc xây ở vùng Arunachal Pradesh, lấn 4,5 km sang lãnh thổ Ấn Độ theo Đường kiểm soát thực tế (Line of Actual Control, LAC), làm dấy lên căng thẳng chủ quyền. New Delhi khẳng định Arunachal Pradesh là một bang của Ấn Độ trong khi Bắc Kinh cũng đòi chủ quyền với 90.000 km2 và gọi là Nam Tây Tạng. Ngôi làng được xây bên bờ sông Tsari Chu, bắt đầu khởi công từ năm 2019 và hoàn thiện vào tháng 10/2020.
Một ngôi làng khác, làng Pangda, được “nhập trạch” vào đúng ngày Quốc khánh Trung Quốc 01/10/2020. Theo chính quyền huyện Á Đông (Yadong), vùng Tây Tạng, 27 hộ gia đình với 124 khẩu tình nguyện chuyển từ làng Shangdui, huyện Á Đông, đến khu định cư mới nằm bên sông Torsa, trên cao nguyên Doklam. Đây là nơi có tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc, Ấn Độ và vương quốc Bhutan. Đối với New Delhi, cao nguyên Doklam có vai trò chiến lược vì nằm sát hành lang Siliguri nhạy cảm, như nút cổ chai và là cầu nối duy nhất giữa 8 bang phía đông bắc của Ấn Độ với phần còn lại của đất nước.
Trang Global Times ngày 23/11/2020 đăng mọi chứng cứ khẳng định làng Pangda thuộc lãnh thổ Trung Quốc, nhưng theo báo New York Times ngày 27/11/2020, làng Pangda lấn sâu hơn 1 km bên trong khu bảo tồn động vật hoang dã Sakteng (Sakteng Wildlife Sanctuary) của Bhutan. Vào mùa hè 2020, Bắc Kinh đòi gần chủ quyền gần 777 km2 và biến khu bảo tồn thành vùng lãnh thổ tranh chấp.
Lập làng trên dãy Himalaya giống như bồi đắp đảo nhân tạo ở Biển Đông
Trên giấy tờ, những ngôi làng này nằm trong khuôn khổ chương trình xóa đói nghèo và bảo đảm ổn định chính trị ở Tây Tạng. Hơn 30 tỉ nhân dân tệ (4,6 tỉ đô la) đã được chi ra để xây dựng nhà ở, trường học, bệnh viện và cơ sở hạ tầng cho những khu vực đó. Còn trên thực tế, những dự án xây dựng tại những vùng đất có tranh chấp một lần nữa khẳng định chính sách bành trướng xâm lược của Trung Quốc.
Song song với các khu định cư mới, Trung Quốc dường như xây dựng thêm nhiều tuyến đường và các hầm công sự – kho tích trữ, theo một người phát ngôn của Maxar Technologies, công ty đã chụp lại hình ảnh làng Pangda từ vệ tinh vào tháng 10/2020. Báo New York Times nhận định : “Công việc xây dựng, được vệ tinh chụp lại, nằm trong loạt kế hoạch được Trung Quốc sử dụng trong nhiều năm. Đó là gạt tuyên bố chủ quyền của các nước láng giềng sang một bên để củng cố vị thế của mình trong các tranh chấp lãnh thổ bằng cách đơn phương thay đổi thực tế”.
Chiến lược này đã và đang được Bắc Kinh áp dụng triệt để tại Biển Đông, theo nhận định của giáo sư Brahma Chellaney, thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chính trị tại New Delhi. Trong bài viết ngày 10/03/2021 trên trang The Strategist của Viện Chính sách Chiến lược Úc (ASPI), ông so sánh “những ngôi làng mới ở biên giới được Trung Quốc xây trên dãy Himalaya giống như những hòn đảo nhân tạo ở Biển Đông. Chế độ của ông Tập Cận Bình vẽ lại bản đồ mà không cần bắn một phát súng nào”.
“Gặm nhấm” từng tấc đất nhờ dân du mục
Xây làng trên đất liền hay bồi đắp đảo nhân tạo rồi đưa dân đến ở và xây dựng công trình hạ tầng phản ánh rõ ý đồ Trung Quốc củng cố kiểm soát những khu vực mà họ tuyên bố chủ quyền.
Kế hoạch làng biên giới được Bắc Kinh triển khai từ năm 2017 khi ông Tập Cận Bình kêu gọi những người du mục vùng Tây Tạng đến định cư ở các vùng biên. Họ “trở thành những người canh gác biên cương” vì theo ông Tập, “nếu không có hòa bình trên lãnh thổ, sẽ không có cuộc sống bình yên cho hàng triệu gia đình”. Kế hoạch được tăng tốc và mở rộng kể từ năm 2019. Với danh nghĩa “xóa đói giảm nghèo”, chính sách định cư của Trung Quốc nhắm đến hai mục đích : triệt tận gốc văn hóa du mục, buộc người dân nghèo sống cố định trong những ngôi làng vùng biên ở những nơi khỉ ho cò gáy ; lấn chiếm và giữ đất.
Theo phân tích của giáo sư Chellaney, bước đầu tiên của Bắc Kinh là tạo ra một tranh chấp mà trước đây không hề có (như trường hợp khu bảo tồn động vật hoang dã Sakteng của Bhutan được nêu ở trên). Sau đó, chế độ của ông Tập Cận Bình thường sử dụng dân quân đi tiên phong. Dĩ nhiên là đảng Cộng Sản Trung Quốc sẽ cử đội giám thị thường trú là đảng viên gốc Hán đến những ngôi làng mới xây.
Việc này giống với trường hợp Biển Đông và biển Hoa Đông. Trung Quốc huy động đội tầu cá dân sự hùng hậu, được lực lượng tuần duyên hậu thuẫn để phục vụ cho công cuộc bành trướng. Còn ở vùng Himalaya, Bắc Kinh đưa những người du mục vào những khu vực hoang vắng để gây tranh chấp và sau đó khẳng định chủ quyền. Giáo sư Chellaney cho rằng với cách tiếp cận như vậy, Trung Quốc sẽ có thể gặm nhấm từng đồng cỏ một trên vùng núi Himalaya.
Ngay cả trong trường hợp phản đối, rất khó để lấy lại được những vùng đất đã bị Trung Quốc chiếm mà không sử dụng đến vũ lực. Đây là thừa nhận của chính quyền Ấn Độ, được báo New York Times trích dẫn. Thực tế cho thấy từ khi tranh chấp biên giới giữa hai nước căng thẳng trở lại, các toán quân Trung Quốc vẫn đóng chốt trên những khu vực ngày trước do Ấn Độ kiểm soát.
Chiến lược “mưa dầm thấm lâu”
Giáo sư Brahma Chellaney nhắc lại là theo luật pháp quốc tế, đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ phải dựa trên việc quốc gia đó kiểm soát một cách liên tục và hòa bình ở vùng đất liên quan. Trung Quốc đang theo chiến lược “mưa dầm thấm lâu” để biến không thành có nhằm mở rộng phía nam Tây Tạng.
Trước tiên là nghiễm nhiên đòi chủ quyền ở một khu vực, tiếp theo là đưa dân đến định cư, xây dựng những công trình hạ tầng kiên cố để phục vụ dân. Từ đó, Trung Quốc có thể viện dẫn luật pháp quốc tế để củng cố các yêu sách chủ quyền của họ, trong đó “kiểm soát có hiệu quả” là điều kiện thiết yếu. Các cuộc tuần tra có vũ trang không chứng minh được khả năng kiểm soát hiệu quả, nhưng các khu định cư thì có.
Ngoài việc xây làng, cắm dân để chiếm đất, Bắc Kinh còn có nhiều dụng ý khác đằng sau kế hoạch này. Một mặt, những khu dân cư sẽ buộc quân đội đối phương hạn chế sử dụng vũ lực, mặt khác, người dân sẽ đóng vai trò thu thập thông tin, cũng như những chiến dịch xuyên biên giới cho Trung Quốc.
Phá hoại môi trường là một điểm chung khác, được giáo sư Brahma Chellaney nêu lên khi so sánh với tình hình ở Biển Đông. Một tòa án trọng tài quốc tế từng lên án hoạt động bồi đắp, xây dựng đảo nhân tạo của Trung Quốc ở Biển Đông, cũng như những công trình hạ tầng trên đó “đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho các rạn san hô”. Tương tự, việc Trung Quốc phá rừng xây làng và căn cứ quân sự cũng đe dọa nghiêm trọng đến hệ sinh thái ở Himalaya. Một trong những ví dụ dễ nhận thấy đó là Trung Quốc đã biến một khu vực hoang sơ chiếm từ Bhutan năm 2017 trên cao nguyên Doklam thành một căn cứ quân sự kiên cố.
Chiến lược chiếm đất mà không mất một viên đạn của Trung Quốc khiến việc bảo vệ lãnh thổ của các nước láng giềng càng trở nên khó khăn. Ấn Độ tạm đủ sức để khống chế đà tiến của Trung Quốc, nhưng những nước nhỏ như Bhutan, Nepal – nước được cho là thân hữu với Bắc Kinh – thì chỉ như “châu chấu đá voi”. Cho đến nay, chiến lược lầm lì xâm chiếm của Trung Quốc tỏ ra hiệu quả cả trên biển cũng như trên bộ, theo kết luận của giáo sư Brahma Chellaney.
Nguồn: RFI/Thu Hằng